Ngày 29/6/2023, bà Dương Thị Kim Hoa – Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường (TNMT) H.Bình Chánh ký văn bản 4375/TNMT phúc đáp TAND H.Bình Chánh liên quan đến thửa đất 609, tờ bản đồ 26, tại thị trấn Tân Túc, H.Bình Chánh (thửa đất 609).
Dù tài liệu chứng cứ thể hiện rõ trong hồ sơ, dư luận đã lên tiếng, nhưng văn bản mới lại “hở đầu, thiếu đuôi”, đẩy hết trách nhiệm cho người đã nộp hàng tỷ đồng vào ngân sách, còn nhóm cán bộ liên quan thì vô can (?!)
Điệp khúc…”quên đủ thứ”
Liên quan vụ việc này, ngày 20/6/2023, Chuyên đề CATP đã có loạt bài điều tra, mới nhất là bài “Đến lượt Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường…”quên đủ thứ”(!)”, chỉ rõ hàng loạt cái “quên” của Phó trưởng phòng (PTP) TNMT H.Bình Chánh Nguyễn Minh Tâm khi ký văn bản số 8155/TNMT 06/12/2022 phúc đáp TAND H.Bình Chánh. Trong đó, cái “quên” lớn nhất là hợp đồng (HĐ) thuê đất do chính Trưởng phòng TNMT H.Bình Chánh ký với bà Ngô Thị Ngọc Dung (ngụ xã Bình Chánh, H.Bình Chánh). Vậy mà khi ký văn bản số 8155/TNMT, ông Tâm “xén” mất HĐ này. Văn bản “quên đủ thứ” của PTP Tâm có thể làm thay đổi bản chất vụ tranh chấp.
Bà Dung trình bày: Sau khi Chuyên đề CATP phản ánh, ngày 29/6/2023, Phòng TNMT H.Bình Chánh có văn bản số 4375/TNMT do PTP Dương Thị Kim Hoa (ký thay Trưởng phòng), tiếp tục “phúc đáp TAND H.Bình Chánh”, nội dung: Phòng TNMT H.Bình Chánh nhận được công văn ngày 10/4/2023 của TAND H.Bình Chánh về việc xác minh, thu thập chứng cứ liên quan vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) thửa đất 609 giữa các nguyên đơn là ông Mạc Công Dũng; ông Lê Minh Tú, bà Ngô Thị Ngọc Dung với bị đơn là ông Nguyễn Văn Tới, được thụ lý ngày 31/3/2022. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực UBND H.Bình Chánh, Phòng TNMT cung cấp thông tin như sau:
(1) Thửa đất 609 đã được UBND H.Bình Chánh cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00581 (GCN số CH00581) ngày 24/02/2011 cho bà Ngô Thị Ngọc Dung, diện tích 3.528m2, loại đất trồng cây lâu năm. Căn cứ Điều 35 Luật Đất đai 2003 và nhu cầu của bà Dung, UBND H.Bình Chánh ra Quyết định (QĐ) số 1936/QĐ-UBND ngày 24/4/2013 chấp thuận cho bà Dung được chuyển mục đích sử dụng đất (SDĐ) thành đất sản xuất kinh doanh, để đầu tư xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và văn phòng làm việc, với hình thức thuê đất thu tiền hàng năm là đúng quy định.
(2) Ngày 12/12/2011, vợ chồng bà Dung lập HĐ chuyển nhượng thửa đất 609 cho ông Nguyễn Văn Tới. Ngày 24/3/2017, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) H.Bình Chánh cập nhật trên GCN số CH00581, nội dung biến động gia hạn thời hạn SDĐ và chuyển nhượng QSDĐ cho ông Tới.
Đối với các QĐ do UBND H.Bình Chánh ban hành liên quan đến việc giao đất, thuê đất, bà Dung không thực hiện đăng ký biến động cập nhật trên GCN, nên chưa được Chi nhánh VPĐKĐĐ, UBND thị trấn Tân Túc cập nhật chỉnh lý hồ sơ địa chính.
(3) Liên quan đến HĐ thuê đất: Điều 5 HĐ thuê đất số 11/HĐTĐ-TNMT (HĐ số 11) ngày 04/6/2013 của Phòng TNMT, có nội dung: “HĐ thuê đất chấm dứt trong trường hợp hết thời hạn thuê đất mà không được gia hạn”.
Về việc gia hạn thuê đất, điểm a khoản 1 Điều 74 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Trước khi hết hạn SDĐ tối thiểu là 6 tháng, người SDĐ có nhu cầu gia hạn SDĐ nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị gia hạn SDĐ”.
HĐ thuê đất hết thời hạn từ ngày 09/4/2016, bà Dung không lập thủ tục để gia hạn. Do đó, UBND H.Bình Chánh không ban hành QĐ gia hạn cho bà Dung và HĐ thuê đất giữa UBND H.Bình Chánh với bà Dung đã chấm dứt, do hết thời hạn thuê đất mà không được gia hạn.
Bà Dung bức xúc: “Lần trước, khi ký văn bản phúc đáp tòa án, PTP Nguyễn Minh Tâm đã “gọt đầu, cắt đuôi” nhằm có lợi cho bị đơn. Sau khi báo chí phản ánh, tôi nghĩ lãnh đạo Phòng TNMT H.Bình Chánh sẽ kiểm tra toàn diện hồ sơ, báo cáo lãnh đạo UBND huyện để có cơ sở phúc đáp đầy đủ, công tâm, khách quan cho tòa án theo quy định; đồng thời chỉ đạo làm rõ, xử lý trách nhiệm các cơ quan, đơn vị, cá nhân liên quan. Đằng này, PTP Dương Thị Kim Hoa tiếp tục ký văn bản “hở đầu, thiếu đuôi”, cố ý “xén” mất phần trọng tâm, có thể làm thay đổi bản chất vụ tranh chấp, đẩy hết trách nhiệm và mọi bất lợi về phía tôi; trong khi những cán bộ liên quan thì vô can? Nhận thấy vụ việc lộ dấu hiệu phạm pháp hình sự, gia đình tôi đã có đơn tố giác tội phạm và kiến nghị TAND H.Bình Chánh chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra”.
Chứng cứ không thể chối cãi (!)
Hồ sơ thể hiện: Ngày 09/4/2011, UBND H.Bình Chánh ban hành QĐ số 1552/QĐ-UBND (QĐ 1552) chấp thuận cho bà Dung được chuyển mục đích sử dụng thửa đất 609 (bằng hình thức giao đất) thành đất sản xuất kinh doanh. Tại khoản 1 Điều 2 QĐ 1552, UBND H.Bình Chánh giao Phòng TNMT chịu trách nhiệm: “Chỉnh lý GCN số CH00581 và cập nhật sổ địa chính; dự thảo giấy chứng nhận QSDĐ trình UBND huyện ký cấp cho bà Dung sau khi đã thực hiện nghĩa vụ tài chính”.
Ngày 11/11/2011, UBND TPHCM ban hành QĐ số 5434/QĐ-UBND, duyệt tiền SDĐ mà bà Dung phải nộp cho thửa đất 609 hơn 23,69 tỷ đồng.
Ngày 12/12/2011, vợ chồng bà Dung ký HĐ chuyển nhượng thửa đất 609 cho ông Tới giá 15 tỷ đồng. Bà Dung khẳng định không bán mà chỉ thế chấp thửa đất 609 để vay 15 tỷ đồng. Điều này thể hiện rõ trong “biên bản thỏa thuận về việc vay tiền” lập ngay khi ký HĐ chuyển nhượng, lúc 17 giờ ngày 12/12/2011, có đầy đủ chữ ký, chữ viết của chính ông Tới. Biên bản xác định rõ: “HĐ chuyển nhượng đất ngày 12/12/2011 thực tế là HĐ vay tài sản, số tiền vay 15 tỷ đồng. Để đảm bảo khoản tiền vay, bên A (vợ chồng bà Dung) đồng ý thế chấp GCN số CH00581 cho bên B (ông Tới)”.
Do chỉ thế chấp nên bà Dung vẫn sử dụng thửa đất cho đến nay, xây dựng công trình trên đất. Về tiền SDĐ, do phải nộp 1 lần quá lớn (hơn 23,69 tỷ đồng), bà Dung không đủ khả năng nên xin chuyển từ giao sang thuê đất, đóng tiền thuê hàng năm.
Ngày 24/4/2013, UBND H.Bình Chánh ban hành QĐ 1936, điều chỉnh QĐ 1552, chấp nhận cho bà Dung thuê 3.128m2 để đầu tư sản xuất kinh doanh và chuyển mục đích 400m2 để xây dựng nhà ở. QĐ này là một bộ phận không thể tách rời của QĐ 1552.
Thực hiện QĐ 1936, ngày 04/6/2013, Trưởng phòng TNMT H.Bình Chánh đã ký HĐ số 11 với bà Dung. Theo HĐ, thời hạn thuê đất 5 năm, kể từ ngày 09/4/2011; giá thuê đất được ổn định. Hết thời hạn, giá thuê đất được tính lại theo quy định. Việc giải quyết tài sản gắn liền với đất sau khi kết thúc HĐ thực hiện theo quy định của pháp luật.
Sau khi HĐ số 11 kết thúc, ngày 25/4/2016, Chi cục Thuế H.Bình Chánh có văn bản 22553/TB-CCT gửi Phòng TNMT tiếp tục thu tiền thuê đất của bà Dung, căn cứ theo QĐ số 1552, QĐ số 1936 và HĐ số 11. Tiếp đến, ngày 08/5/2017, Chi cục Thuế có văn bản 9996/TB-CCT gửi Phòng TNMT, nêu rõ việc thu tiền thuê đất của bà Dung, cũng căn cứ 2 QĐ 1552, 1936 cùng HĐ số 11. Mới nhất là văn bản số 2911/TB-CCT ngày 07/3/2023 của Chi cục Thuế gửi Phòng TNMT về việc thu tiền thuê đất. Theo đó, đơn giá thuê năm 2021 và 2022 là 87.856 đồng/m2/năm; năm 2023 là 134.096 đồng/m2/năm.
Như vậy, căn cứ 2 QĐ 1552, 1936 và HĐ số 11, Chi cục Thuế thu tiền thuê đất của bà Dung xuyên suốt từ đó đến nay với tổng số tiền hơn 1,521 tỷ đồng. Mới nhất là văn bản số 4655 do Chi cục trưởng Phạm Ngọc Lộc ký ngày 31/5/2023, xác nhận bà Dung đã nộp hơn 274,81 triệu đồng tiền thuê đất năm 2021. Bà chưa đóng tiền thuê đất năm 2022 và 2023 do đang xảy ra tranh chấp.
Liên quan đến việc chuyển mục đích 400m2 thành đất ở, căn cứ QĐ 1936, ngày 09/5/2013, Phòng TNMT H.Bình Chánh có văn bản số 16/PC-TNMT gửi Chi cục Thuế thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính. Ngày 30/9/2013, Chi cục Thuế có văn bản gửi Phòng TMMT và bà Dung, thông báo tiền SDĐ bà Dung phải nộp cho 400m2 đất ở là 712,08 triệu đồng. Bà Dung đã nộp số đủ tiền này ngày 05/11/2013, nhưng Phòng TNMT không thi hành QĐ của UBND H.Bình Chánh, nay quay sang đổ lỗi cho người đã nộp tiền tỷ vào ngân sách.
Bà Dung lên tiếng: “Với hàng loạt văn bản của Chi cục Thuế và Phòng TNMT, tôi tin HĐ số 11 được gia hạn và tôi nộp đầy đủ tiền thuê đất xuyên suốt đến nay. Vợ chồng tôi vẫn quản lý, sử dụng thửa đất 609, xây nhà, tường rào và cổng kiên cố, lắp đặt trạm biến áp, hệ thống cấp nước, thuê người vào ở và trông coi đất… Như vậy, có đầy đủ cơ sở chứng minh thửa đất 609 đang do vợ chồng tôi sử dụng hợp pháp. Hàng loạt văn bản nêu trên là bằng chứng xác thực, có trong hồ sơ, nhưng PTP Dương Thị Kim Hoa “quên” tuốt rồi lạnh lùng kết luận “phủi” mọi trách nhiệm”.
Nhóm luật sư trợ giúp pháp lý cho vợ chồng bà Dung nêu quan điểm: Với tài liệu có trong hồ sơ, việc Phòng TNMT cho rằng HĐ số 11 đã chấm dứt do không được gia hạn là hoàn toàn không có căn cứ. Bởi sau khi hết hạn thuê đất, nếu bà Dung không được gia hạn thì Phòng TNMT phải ra “thông báo cho người SDĐ biết” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 74 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ TNMT. Mặt khác, Phòng TNMT phải tham mưu UBND H.Bình Chánh ra thông báo, hay ban hành QĐ chấm dứt thi hành đối với QĐ 1552 và QĐ 1936. Đồng thời, Phòng TNMT phải có trách nhiệm giải quyết tài sản mà bà Dung đã đầu tư trên thửa đất 609 theo Điều 6 HĐ số 11.
Phòng TNMT không có bất kỳ động thái gì sau khi HĐ số 11 kết thúc. Trong khi đó, Chi cục Thuế đã có nhiều văn bản gửi Phòng TNMT tiếp tục thu tiền thuê đất của bà Dung, theo QĐ 1552, QĐ 1936 của UBND H.Bình Chánh và HĐ số 11. Phòng TNMT đồng ý gia hạn HĐ số 11 nên không có ý kiến gì. Từ đó, Chi cục Thuế liên tục thu tiền thuê đất của bà Dung cho đến nay… Do vậy, trong vụ việc này, Phòng TNMT H.Bình Chánh phải chịu trách nhiệm lớn nhất. Chiếu theo Điều 7 HĐ số 11: “Hai bên cam kết thực hiện đúng quy định của HĐ, bên nào không thực hiện thì phải bồi thường do việc vi phạm HĐ gây ra”…
Theo Công An